Thời cổ đại Thuật chiêu hồn

Thuật chiêu hồn ban đầu có liên quan đến, hoặc dường như là phát triển từ shaman giáo. Trong shaman giáo có nghi lễ triệu hồi hồn ma của tổ tiên. Chiêu hồn sư cổ đại trò chuyện với người chết bằng "giọng pha trộn giữa tiếng rít the thé và tiếng ồ ề nhẹ", có thể so sánh với tiếng lẩm bẩm của shaman khi lên đồng.[8] Thuật chiêu hồn phổ biến trong suốt thời cổ đại theo như ghi chép về việc thực hành nó ở Ai Cập cổ đại, Babylonia, Hy Lạp cổ đạiLa Mã cổ đại. Trong Geographica, Strabo đề cập đến nekromantia (νεκρομαντία), hay "người bói toán bằng tử thi", là những người thực hành bói toán hàng đầu ở Ba Tư.[9] Người xưa còn tin rằng thuật này đã phổ biến ở các dân tộc thuộc Chaldea (đặc biệt là người Sabi, "những người tôn thờ các vì sao"), Etruria và Babylonia.[10] Chiêu hồn sư người Babylonia được gọi là manzazuu hoặc sha'etemmu, và những linh hồn mà họ triệu hồi được gọi là etemmu.[11]

Tài liệu văn học cổ nhất về thuật chiêu hồn được tìm thấy trong sử thi Odyssey của Homeros.[6][7] Theo lời chỉ dẫn của phù thủy quyền năng Kirke, Odysseus du hành đến âm phủ (katabasis) để hiểu rõ hơn về những điều sắp xảy ra trên chuyến hải trình trở về quê nhà của mình. Để thực hiện điều này, ông phải sử dụng ma thuật mà Kirke chỉ dạy nhằm triệu hồi linh hồn người chết. Ông muốn gọi vong hồn của Teiresias để hỏi cụ thể; tuy nhiên, ông không thể triệu hồi linh hồn của nhà tiên tri nếu như không có sự giúp đỡ của đồng đội. Những đoạn văn trong Odyssey chứa nhiều mô tả về nghi lễ chiêu hồn: nghi lễ phải thực hiện xung quanh một hố lửa vào những giờ đêm, và Odysseus phải làm theo một công thức cụ thể, bao gồm máu của động vật hiến tế để pha chế thành một loại rượu cho hồn ma uống. Cùng lúc đó, ông phải đọc lời cầu khấn với cả ma và thần ở dưới âm phủ.[12]

Nghi lễ chiêu hồn có thể khá phức tạp, đòi hỏi việc sử dụng vòng tròn ma thuật, đũa phép, talisman, và thần chú. Chiêu hồn sư có thể phủ lên mình những khía cạnh bệnh tật của cái chết, bằng cách mặc đồ của người đã khuất, ăn đồ ăn tượng trưng cho sự thiếu sức sống và mục nát, chẳng hạn như bánh mì đen và nước nho ép không men. Một số chiêu hồn sư thậm chí còn đi xa đến mức tham gia vào việc mổ xẻ và tiêu thụ tử thi.[13] Những nghi lễ này có thể kéo dài hàng giờ, hàng ngày, thậm chí là hàng tuần để đạt được kết quả cuối cùng là triệu hồi linh hồn. Chúng thường được thực hiện ở nơi chôn cất hoặc chốn u uất nào đó phù hợp với chỉ dẫn cụ thể của chiêu hồn sư. Thêm vào đó, chiêu hồn sư thích triệu hồi người mới qua đời cách đây không lâu dựa trên tiền đề rằng những lời tiết lộ của họ sẽ rõ ràng hơn. Khung thời gian này thường giới hạn trong 12 tháng kể từ khi thể xác vật lý chết. Sau khi giai đoạn này trôi qua, chiêu hồn sư chỉ có thể gọi hồn dưới dạng bóng ma của người đã khuất thay vào đó.[14]

Trong khi một số nền văn hóa cho rằng kiến thức của người chết là vô hạn, thì người Hy Lạp và La Mã cổ đại tin rằng vong hồn của cá nhân chỉ biết một số điều nhất định. Giá trị hiển nhiên trong lời khuyên của họ chỉ có thể dựa trên những gì mà họ biết lúc còn sống hoặc lĩnh hội được sau khi chết. Trong Metamorphoses, Ovidius có đề cập đến một khu chợ ở âm phủ, nơi mà người chết tụ tập để trao đổi tin tức hoặc tám chuyện.[15]

Ngoài ra còn có một số đề cập đến chiêu hồn sư, được gọi là "bà cốt" ở cộng đồng người Do Thái thời kỳ Hy Lạp hóa – trong Kinh Thánh. Sách Đệ nhị Luật (18: 9–12)[16] cảnh báo người Isarel rằng họ không được dính dáng vào thực hành bói toán bằng tử thi của người Canaan:

9Khi vào đất mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), ban cho anh (em), thì anh (em) đừng học đòi những thói ghê tởm của các dân tộc ấy. 10Giữa anh (em), không được thấy ai làm lễ thiêu con trai hoặc con gái mình, không được thấy ai làm nghề bói toán, chiêm tinh, tướng số, phù thuỷ, 11bỏ bùa, ngồi đồng ngồi cốt, chiêu hồn. 12Thật vậy, hễ ai làm điều ấy thì là điều ghê tởm đối với ĐỨC CHÚA, và chính vì những điều ghê tởm ấy mà ĐỨC CHÚA, Thiên Chúa của anh (em), đã trục xuất các dân tộc ấy cho khuất mắt anh (em).

Mặc dù Luật Moses quy định hình phạt tử hình đối với những ai thực hành thuật chiêu hồn (Leviticus 20:27),[17] nhưng cảnh báo này không phải lúc nào cũng được lưu ý. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là khi Vua Saul yêu cầu Phù thủy xứ Endor gọi vong của nhà tiên tri đến từ Sheol (âm phủ trong Kinh Thánh Hebrew) là Samuel, thông qua một cái hố thực hiện nghi lễ (1 Samuel 28:3–25).[18] Tuy nhiên, người được gọi là phù thủy đã sốc trước sự hiện diện của linh hồn thực sự của Samuel, theo như 1 Samuel 28:12 ghi lại thì "người đàn bà trông thấy ông Samuel và rú lên." Khi đã tỉnh ngộ lại, Samuel hỏi Saul: "Tại sao ngài lại gọi tôi lên mà quấy rầy tôi?"[19] Saul không nhận án tử hình (vì ông là người có quyền hành cao nhất của vương quốc Israel), nhưng ông đã nhận nó từ chính tay Thiên Chúa đúng như lời tiên tri của của Samuel (1 Samuel 28:17–19), trong một ngày mà ông tử trận cùng với con trai mình là Jonathan.

Một số văn sĩ Cơ Đốc giáo bác bỏ quan niệm rằng con người có thể gọi linh hồn người chết trở về. Thay vào đó, họ cho rằng những vong hồn đó chính là ác quỷ cải trang nên đã quy kết thuật chiêu hồn với thuật triệu hồi ác quỷ. Caesarius thành Arles khẩn cầu thính giả của mình đừng tin vào bất kỳ ác quỷ hay vị thần nào khác ngoài Thiên Chúa Cơ Đốc, cho dù việc sử dụng thần chú đó có lợi ích đến thế nào đi chăng nữa. Ông tuyên bố rằng ma quỷ chỉ hành động khi có sự cho phép của Thiên Chúa và được Thiên Chúa yêu cầu để thử thách tín hữu Cơ Đốc. Caesarius trong trường hợp này không lên án con người; ông chỉ nói rằng có tồn tại thuật chiêu hồn mặc dù nó bị Kinh Thánh cấm.[20]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Thuật chiêu hồn http://www.merriam-webster.com/dictionary/Necroman... http://www.merriam-webster.com/dictionary/necroman... http://oed.com/view/Entry/125700 http://oxforddictionaries.com/definition/necromanc... http://www.mechon-mamre.org/p/pt/pt08a28.htm#3 http://www.newadvent.org/cathen/10735a.htm http://en.wikisource.org/wiki/Metamorphoses_(tr._G... http://en.wikisource.org/wiki/The_Notebooks_of_Leo... //www.worldcat.org/oclc/22318758 //www.worldcat.org/oclc/25019974